Lễ hội Cầu bông của người Kinh tại các đình thần ở Bình Phước–dấu ấn lịch sử và văn hóa truyền thống.
Lễ hội Cầu bông ra đời vào khoảng nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, gắn với quá trình hình thành các ngôi đình thần và hoạt động sản xuất nông nghiệp của những cư dân người Kinh sinh sống trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Hiện nay, Lễ hội Cầu bông ở tỉnh Bình Phước được cộng đồng thực hành tại 5 ngôi đình và một miếu thờ Thành hoàng, cụ thể: đình Hưng Long (thị trấn Chơn Thành, huyện Chơn Thành), đình Tân Khai (xã Tân Khai), đình Thanh An (xã Thanh An), đình Suối Cạn (xã Minh Hưng, huyện Hớn Quản), đình Tân Lập Phú (phường Phú Thịnh, thị xã Bình Long), miếu Đức Hòa (thị trấn Đức Phong, huyện Bù Đăng).
Lễ hội Cầu Bông của người Kinh ở Bình Phước được hình thành và phát triển từ lâu đời, gắn liền với quá trình di dân và định cư của người Kinh tại vùng đất Bình Phước. Cùng với quá trình ấy, người Kinh đã mang theo truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng làng xã đến với vùng đất mới, trong đó có tục thờ cúng Thành Hoàng, những bậc tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai cơ tại các ngôi đình do chính người dân xây dựng. Điều đặc biệt, Lễ hội cầu Bông của người kinh ở Bình Phước được tổ chức tại các ngôi đình thần, khác biệt hoàn toàn với các Đình khác trong khu vực Nam Bộ. Đình thần ở Bình Phước không chỉ là nơi thờ thần Thành Hoàng mà còn là nơi diễn ra các nghi lễ của lễ hội Cầu bông, là nơi gửi gắm tâm tư, nguyện vọng, mong ước của một cộng đồng, điều này đã tạo ra những giá trị văn hóa riêng có của Bình Phước.
Ở mỗi đình thần, Lễ hội Cầu bông được tổ chức vào những ngày khác nhau, nhưng thường tổ chức trong tháng Tám, Chín và tháng Mười (Âm lịch). Đình thần Hưng Long tổ chức Lễ hội Cầu bông vào ngày 15 và 16 tháng Bẩy, đình thần Tân Khai vào ngày 17 và 18 tháng Tám, đình thần Thanh An vào ngày 15 và 16 tháng Mười, đình thần Tân Lập Phú vào ngày 8 và 9 tháng Chín, miếu thần hoàng Đức Hòa từ ngày 13 đến 14 tháng Mười, đình thần Suối Cạn vào ngày 18 tháng Sáu. Theo phong tục, cứ 3 năm sẽ tổ chức đại lễ một lần (gọi là tục tam niên đáo lệ), trong đại lễ thường có hát bội.
Lễ hội Cầu Bông là hoạt động văn hóa tín ngưỡng của cư dân làm nông nghiệp ở vùng đất Bình Phước lúc bấy giờ – nền nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tự nhiên như: Khí hậu, nguồn nước. Quá trình canh tác, cây trồng phát triển thường gặp nhiều rủi ro, năng suất thấp. Người dân Bình Phước trồng hai loại lúa là lúa rẫy và lúa nước, lúa rẫy bắt đầu canh tác từ tháng 5 dương lịch, lúa nước gieo trồng vào tháng 6 dương lịch, tháng 8, 9 là giai đoạn trổ đòng,đơm bông vì vậy Lễ hội thường được tổ chức trong thời gian từ tháng 7 âm lịch đến tháng 10 âm lịch.Thông qua các nghi thức, nghi lễ trong Lễ hội Cầu Bông mang ý nghĩa cầu cho cây trồng đơm hóa, kết trái được thuận lợi, mùa màng bội thu, mưa thuận, gió hòa cho cây trái xanh tốt, mọi nhà được no ấm, thịnh vượng.Đồng thời , lễ hội cũng là dịp để người dân cảm tạ đến công đức của Thành Hoàng và những người có công lao trong việc khai khẩn, dựng nên xóm làng. Những điều này đã làm nên sự khác biệt của Lễ hội Cầu Bông ở Bình Phước.
Theodòng thời gian Lễ hội Cầu bông ngày càng được tổ chức bài bản, quy củ về cả nội dung và hình thức thể hiện. Lễ hội thường được tổ chức hai ngày, gồm có hai phần:Phần lễ và phần hội
Phần Lễ thực hiện trong ngày thứ nhất:
Lễ trình thần
Diễn ra vào14h00 chiều ngày thứ nhất, Ban Quý tế dâng lễ trình báo với Thành hoàng về những người sẽ thực hành các nghi lễ của Lễ hội Cầu bông. Nghi thức cúng Thành Hoàng, các thành viên trong Ban Quý tế trang phục gọn gàng, khấn cúng niệm hương, không có văn tế. Sau khi Chánh tế thực hiện nghi thức cúng Thành Hoàng, các thành viên tiến hành thắp hương lên bàn thờ Thành Hoàng, Tiền hiền, Hậu hiền để trình Thần các thành viên Ban Quý tế sẽ thực hiện các nghi lễ sắp được diễn ra tại đình thần.
Lễ thỉnh sanh
Thực hiện vào lúc 15h00 chiều ngày thứ nhất (sau khi kết thúc lễ Trình thần), Ban Quý tế dâng trình lễ vật và xin phép Thành Hoàng cho được mổ heo để dùng cho lễ hội. Heo được chuẩn bị cho nghi lễ cúng là một con heo sống tuyền sắc (một màu – con vật thuộc loại nguyên sinh, thuần chủng không phải là giống lai tạp) thể hiện cho sự nguyên vẹn của vật lễ dâng cúng lên Thành Hoàng. Heo dâng cúng được tắm rửa sạch và cột bốn chân chắc chắn để đưa lên đặt trước bàn thờ Thành Hoàng, ngoài ra còn các lễ vật là hoa quả, nhang, đèn, trầu, rượu… được sắp đặt tại bàn thờ Thành Hoàng và các bàn thờ Tiền hiền, Hậu hiền, bàn thờ Thần nông của đình thần. Sau khi đã chuẩn bị xong lễ vật, Ban Quý tế sẽ thực hiện nghi thức cúng, trình heo tuyền sắc đang còn sống và xin Thần Thành Hoàng được phép làm thịt heo để dùng cho lễ hội.
Sau khi kết thúc Lễ thỉnh sanh, con heo sống được mổ thịt. Người mổ heo dùng một cái chung nhỏ để lấy một ít huyết heo và một nhúm lông gáy, lông đuôi của con heo (gọi là huyết mao) để dâng cúng Thành Hoàng ở nghi thức tiếp theo, chung đựng huyết mao sẽ được bọc giấy tiền vàng mã. Thịt heo sau khi được làm sạch sẽ, vẫn để nguyên con tiếp tục được đưa lên chính điện cùng với phần huyết mao để dâng cúng Thành Hoàng. Riêng phần lòng heo và huyết heo sẽ được dùng để nấu cháo dâng cúng trên đình thần.
Lễ tiên thường
Thực hiện vào 18 giờ chiều ngày thứ nhất, đây là nghi lễ dâng cúng lễ vật trình với Thành Hoàng sau khi đã mổ thịt heo chuẩn bị cho chính lễ ngày hôm sau.Lễ vật dâng cúng trong lễ tiên thường là thịt heo sống nguyên con cùng với cháo được nấu với lòng và huyết heo được đặt lên bàn thờ Thành Hoàng và các ban thờ khác tại đình thần. Sau khi các lễ vật được chuẩn bị xong, Chánh tế và các thành viên trong Ban Quý tế sẽ tiến hành bái ba bái trước bàn thờ và sau đó dâng hương lên trên bàn thờ Thành Hoàng, Tiền hiền, Hậu hiền trong đình. Kết thúc nghi lễ Tiên thường Ban quý tế sẽ đốt giấy tiền vàng trên bàn thờ Thần Thành Hoàng đồng thời kết thúc các nghi lễ của ngày thứ nhất
Phần lễ thực hiện trong ngày thứ hai:
Lễ chính tế
Ban Quý tế thực hiện nghi thức chính lễ. Lễ vật dâng cúng tại bàn thờ Thành hoàng (một phần thịt sườn heo sống, 7 thanh sườn heo); tại ban thờ Tiền hiền, Hậu hiền (phần thịt heo sống với 5 thanh sườn heo); tại ban thờ Chúa tể sơn lâm (một phần thịt heo sống, ngoài ra còn có các lễ vật khác gồm hoa quả, nhang đèn, hương đăng, rượu, trà, cau trầu…). Cùng với các lễ vật do Ban Quý tế chuẩn bị, nhân dân và du khách thập phương đến tham dự lễ hội sẽ đặt các lễ vật dâng cúng tại bàn hội đồng trước bàn thờ Thành Hoàng.
Nghi thức tiến hành lễ chính tế được tổ chức vào lúc 8 giờ sáng, bắt đầu là nghi thức khai lễ, tiếp đến là nghi thức cúng thần Thành Hoàng, kết thúc là lễ cúng Tiền hiền, Hậu hiền. Sau khi cúng đình hoàn thành, cộng đồng sẽ vào đình dâng hương và cầu xin sức khỏe, bình an, thịnh vượng, mùa vụ bội thu…
Lễ rước bội và hoạt động hát bội
Hát bội chỉ được tổ chức vào những năm tiến hành đại lễ. Để tổ chức việc này, Ban Quý tế sẽ liên hệ với đoàn hát và chuẩn bị võ ca để tổ chức hát bội tại đình thần, võ ca thường được bố trí trước cửa đình và quay vào chính diện của đình.
Đến lễ chính, khi đoàn hát bội đến cửa đình, đại diện đoàn hát bội thắp nhang lên trên ngai thờ Tổ hát bội, lúc này Chánh tế bưng một khay trầu, rượu, nhang đèn, cùng các thành viên trong Ban Quý tế đem theo dàn lễ bộ ra cổng đình trao cho đại diện đoàn, để nghênh đón rước Tổ hát bội và đoàn hát bội vào đình.
Sau đó, đoàn hát bội sẽ đưa Ngai thờ Tổ vào đình để xin phép Thành hoàng được đặt Ngai thờ Tổ sau sân khấu của võ ca. Lúc này đoàn hát bội mới tiến hành đưa các dụng cụ, đồ dùng của đoàn hát bội vào đình và tiến hành những công tác chuẩn bị cho hoạt động biểu diễn của đoàn hát. Các đoàn hát bội về biểu diễn các tuồng, tích về lịch sử, văn hóa, sử thi thần thoại hoặc những câu chuyện dân gian về các tích sử mang tính răn đe giáo dục thể hiện cho tính nhân văn sâu sắc. Các vở diễn như: Vua Quang Trung đại phá quân Thanh, tiếng trống Mê Linh…
Phần hội:
Nếu trong các dịp lễ thường, phần hội được thực hiện và kết thúc luôn trong ngày thứ hai của lễ hội. Nếu có trình diễn hát bội, phần hội có thể kéo dài đến ngày thứ ba. Tại các Đình thần sẽ tổ chức nhiều hoạt động phong phú khác nhau như hoạt động ca hát, văn hóa, văn nghệ dân gian hay tổ chức các trò chơi dân gian như: chọi gà, đụng trâu, đi cà kheo, đánh cờ… để nhân dân về tham dự lễ cùng tham gia.
Lễ hội Cầu Bông ghi dấu quá trình khai hoang lập làng của người Kinh trên vùng đất Bình Phước vào khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Lễ hội là dịp gắn kết cộng đồng, làng xã để vượt qua những lúc khó khăn, vất vả của buổi đầu khai sơn phá thạch cũng như trong quá trình xây dựng và phát triển lập nên các xóm làng người Việt trên vùng đất mới. Thông qua hoạt động lễ hội tại các đình thần đã phản ánh những ước mơ, khát vọng của cư dân người Kinh làm nông nghiệp khi đến Bình Phước, đó là cầu mong cho mùa màng tốt tươi, cây trái được mùa, nhân dân no ấm, hạnh phúc…
Lễ hội Cầu Bông diễn ra ở các đình thần Bình Phước thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”, ghi nhớ công ơn những người đi trước đã có công khai phá, tạo dựng nên những xóm làng mới để các thế hệ sau tiếp bước xây dựng. Có thể thấy, lễ hội Cầu Bông là kết quả của sự giao thoa văn hóa của cư dân các vùng miền của các dân tộc làm nên sự đa sắc màu trong bức tranh văn hóa của Bình Phước nói riêng và cả nước nói chung.
Với giá trị tiêu biểu, Lễ hội cầu Bông của người Kinh ở Bình Phước được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 823/QĐ-BVHTTDL ngày 09 /3/2021.
Một số hình ảnh tại lễ hội:
Đọc văn tế trước bàn thờ Thành Thần Hoàng
Ban quý tế thực hiện nghi lễ
Đặt cau trầu lên bàn thờ thực hiện nghi lễ
Tác giả: Lê Phương