Lấy ý kiến về nội dung cấm kinh doanh mua bán bảo vật quốc gia trong dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi), Bộ VHTTDL cho biết, trong quá trình nghiên cứu, xây dựng, xin ý kiến đóng góp đối với dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi), hai quy định “cấm”: Cấm kinh doanh mua bán bảo vật quốc gia và Cấm xuất khẩu di vật, cổ vật.
Chỉ quy định cấm kinh doanh mua bán bảo vật quốc gia
Căn cứ các quy định và để đảm bảo phù hợp với Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, nhằm khuyến khích mua bán di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia ở trong nước để gia tăng giá trị di sản văn hóa, Bộ VHTTDL cho biết, dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) theo hướng quy định di vật, cổ vật thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng được chuyển nhượng thông qua mua bán dân sự, trao đổi, tặng cho, thừa kế và kinh doanh ở trong nước theo quy định của pháp luật; bảo vật quốc gia thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng được chuyển nhượng thông qua mua bán dân sự, trao đổi, tặng cho, thừa kế ở trong nước. Như vậy, dự thảo Luật chỉ quy định cấm kinh doanh mua bán bảo vật quốc gia và cấm kinh doanh xuất khẩu di vật, cổ vật, đảm bảo phù hợp với quy định của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp.
Quy định cấm kinh doanh mua bán bảo vật quốc gia, phương án lựa chọn do Bộ VHTTDL đề xuất được nhiều chuyên gia, nhà sưu tập, chủ nhân nhiều bảo tàng tư nhân có bảo vật quốc gia đồng thuận (ảnh hai bảo vật quốc gia: Ấn ngọc Đại Nam thụ thiên vĩnh mệnh truyền quốc tỷ và Trống đồng Hoàng Hạ)
Về quy định cấm kinh doanh mua bán bảo vật quốc gia, phương án lựa chọn do Bộ VHTTDL đề xuất được nhiều chuyên gia, nhà sưu tập, chủ nhân nhiều bảo tàng tư nhân có bảo vật quốc gia đồng thuận.
Theo Cục Di sản văn hóa, Bộ VHTTDL đề xuất 2 phương án lựa chọn. Phương án 1 quy định “Bảo vật quốc gia thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng chỉ được chuyển nhượng, trao đổi, tặng cho, để thừa kế ở trong nước theo quy định của pháp luật và không được kinh doanh” tại điểm c khoản 1 Điều 40 Dự thảo 4 Luật Di sản văn hóa (sửa đổi); bổ sung nội dung về “Kinh doanh mua bán bảo vật quốc gia” vào điều khoản về ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh của Luật Đầu tư số 61/2020/QH14. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung tại Phụ lục IV của Luật Đầu tư.
Ưu điểm của phương án này là bảo đảm thống nhất với quy định “Không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái luật quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản” và quy định “Quyền định đoạt chỉ bị hạn chế trong trường hợp do luật quy định” tại khoản 1 Điều 163, khoản 1 Điều 196 Bộ Luật Dân sự; Giúp ngăn chặn nguy cơ mất mát, hủy hoại hoặc mua bán trái phép bảo vật quốc gia; Ngăn chặn được nguy cơ lợi dụng danh hiệu bảo vật quốc gia để trục lợi; giúp đảm bảo di sản văn hóa được gìn giữ, trao truyền cho thế hệ hiện tại và tương lai. Nhược điểm của phương án 1 là hạn chế quyền định đoạt của chủ sở hữu bảo vật quốc gia.
Phương án 2 giữ nguyên quy định của Luật Di sản văn hóa hiện hành về việc cho phép mua bán bảo vật quốc gia không thuộc sở hữu toàn dân và Phụ lục IV của Luật Đầu tư số 61/2020/QH14.
Ưu điểm là không hạn chế quyền định đoạt của chủ sở hữu bảo vật quốc gia. Nhược điểm là hạn chế quyền định đoạt của chủ sở hữu đối với bảo vật quốc gia thuộc sở hữu chung và sở hữu riêng của chủ sở hữu.
Dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) được soạn thảo trên cơ sở các quan điểm nhằm tiếp tục thể chế hóa đầy đủ, kịp thời các quan điểm, chủ trương của Đảng về văn hóa, di sản văn hóa
Từ 02 Phương án trên, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã đề xuất lựa chọn Phương án 1 quy định vào dự thảo Luật, cụ thể tại Điều 99. Sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật khác liên quan, tại điểm a và điểm c, Khoản 2: “a) Bổ sung điểm i, điểm k vào sau điểm h khoản 1 Điều 6 như sau: (i) Kinh doanh mua bán bảo vật quốc gia.
(k) Kinh doanh xuất khẩu di vật, cổ vật”
(c) Sửa đổi, bổ sung ngành, nghề thứ tự số 201, 202 của Phụ lục IV Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện như sau: (201) Kinh doanh mua bán di vật, cổ vật; (202) Nhập khẩu hàng hóa văn hóa thuộc diện quản lý chuyên ngành của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Cấm xuất khẩu di vật, cổ vật
Về quy định cấm xuất khẩu di vật, cổ vật, Bộ VHTTDL đề xuất 2 phương án lựa chọn. Phương án 1 đưa vào dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) quy định “Di vật, cổ vật thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng chỉ được chuyển nhượng, trao đổi, tặng cho, để thừa kế và kinh doanh ở trong nước theo quy định của pháp luật”; đồng thời sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư và Phụ lục IV của Luật Đầu tư. Ưu điểm của phương án nhằm bảo đảm thống nhất với quy định “Không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái luật quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản” và quy định “Quyền định đoạt chỉ bị hạn chế trong trường hợp do luật quy định” tại khoản 1 Điều 163, khoản 1 Điều 196 Bộ luật Dân sự; phù hợp với các công ước quốc tế về di sản văn hóa mà Việt Nam là thành viên; ngăn chặn nguy cơ trộm cắp, đào bới trái phép di vật, cổ vật và làm thất thoát kho tàng di sản văn hóa của dân tộc ra nước ngoài. Nhược điểm của phương án là hạn chế quyền của chủ sở hữu di vật, cổ vật.
Phương án 2, giữ nguyên quy định của Luật Di sản văn hóa hiện hành về việc cho phép di vật, cổ vật không thuộc sở hữu toàn dân được mua bán, trao đổi, tặng cho và để thừa kế ở nước ngoài theo quy định của pháp luật. Theo Bộ VHTTDL, ưu điểm của phương án này là không hạn chế quyền định đoạt của chủ sở hữu. Nhược điểm là thúc đẩy việc đưa di vật, cổ vật của Việt Nam ra nước ngoài một cách công khai, hợp pháp và không thể kiểm soát; đồng thời phát sinh những khó khăn trong quá trình bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa, gia tăng tình trạng chảy máu cổ vật ra nước ngoài. Từ 2 phương án trên, Bộ VHTTDL đề xuất lựa chọn phương án 1 quy định vào dự thảo Luật.
Dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) ngăn chặn việc làm thất thoát kho tàng di sản văn hóa của dân tộc ra nước ngoài
Bộ VHTTDL cho biết, dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) được soạn thảo trên cơ sở các quan điểm nhằm tiếp tục thể chế hóa đầy đủ, kịp thời các quan điểm, chủ trương của Đảng về văn hóa, di sản văn hóa. Kế thừa, phát triển những quy định của pháp luật về di sản văn hóa hiện hành đã được thực tiễn kiểm nghiệm; sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế trong chính sách, pháp luật đã được chỉ ra trong quá trình tổng kết thi hành Luật Di sản văn hóa.
Mục tiêu của hai phương án được đề xuất lựa chọn nhằm khắc phục những bất cập đang diễn ra, ngăn chặn nguy cơ mất mát, hủy hoại hoặc mua bán trái phép bảo vật quốc gia; ngăn chặn nguy cơ lợi dụng danh hiệu bảo vật quốc gia để trục lợi cũng như ngăn chặn nguy cơ trộm cắp, đào bới trái phép di vật, cổ vật và làm thất thoát kho tàng di sản văn hóa của dân tộc ra nước ngoài.
Theo Cục Di sản Văn hóa, để giải quyết những vấn đề còn ý kiến khác nhau giữa Dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) và Luật Lưu trữ (sửa đổi), Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 29/02/2024 về phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 2/2024 của Chính phủ đã giao hai Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Bộ Nội vụ phối hợp để thống nhất quy định, tránh chồng chéo./.
Theo: bvhttdl.gov.vn